Thời thiếu nhi, anh được bố mẹ đưa về sống với ông bà nội!
Ngày đầu tiên đi học trường làng, ông nội anh đẽo cho anh 1 cái bảng bằng gỗ mít to tổ bố. Bảng con nhà người ta bỏ vừa vặn cái xắc cước, bảng của anh ông anh buộc dây đeo ở cổ. Cũng may nhà anh gần trường, cứ mỗi trưa, ăn xong bát khoai độn cơm với dưa kho, anh lặc lè đeo cái bảng đi học!
Mang tiếng là con cơ quan, nhưng thời bao cấp còn khổ hơn nông dân. Nông dân đói bụng còn ra đồng, lên núi hái lượm được cái ăn mà bỏ vào mồm. Cơ quan hồi đó đói như chó! Bố mẹ anh xanh xao vàng vọt, lên cơ quan làm việc uể oải vì thiếu chất, cơ bản là ngồi ngáp cho hết giờ uỷ ban rồi lai lọ mọ về nhà.
Đói là thế nhưng hăng khiếp! Thời đó đi đâu cũng thấy khẩu hiệu đỏ lòm! Từ bờ tường nhà dân, cổng chào, bảng tin, kho hợp tác xã...đều có khẩu hiệu. Kiểu: Tiến lên Chủ nghĩa xã hội là tấn công vào nghèo nàn và lạc hậu!; hoặc: Thay trời, đạp đất sắp xếp lại giang sơn...! Sau này lớn lên, nhiều đêm không ngủ nằm i óc nghẫm hết chuyện nọ xọ chuyện kia, anh mới hình dung ra được rằng: Nhân dân ta tồn tại qua được cái thời bao cấp thần thánh cũng nhờ 1 phần vào sự hăng tiết chó đó!
Phía trước nhà nội anh là cánh đồng làng, phía sau là dãy đồi thoãi. Mảnh đồng rừng quê anh thiếu nước, cây lúa dặt dẹo bạc phếch; lùa bát cơm vào miệng nó cứ nhàn nhạt, nhàn nhạt. Dãy đồi phía sau hợp tác xã trồng bạch đàn và tràm bốn mùa xanh um.
Anh 1 buổi đi học, 1 buổi lang thang hết đồng ruộng rồi đến vạt đồi. Quê hương là cả 1 thế giới diệu kỳ. Tháng 4, những con chim nguồn về hót râm ran vạt đồi sau nhà. Hương tràm, hương cau vấn vít cả những đêm tháng tư. Anh nằm trên cái chõng tre, nghe bà anh ơ hờ về những thời cổ tích xa lăng lắc lúc nội còn con gái...Thời ông anh vận quần nâu guốc mộc cầm ô đi tán bà anh. Qua rất nhiều đêm tháng tư như thế, anh biết được ông anh là con cái nhà giàu, bà anh là cô thôn nữ đi bán vàng mã ở chợ, qua mai mối mà về với nhau. Rồi gia cảnh bần hàn dần, ông bà anh nương vô nhau mà sinh con đẻ cái.
Buổi sáng thức dậy đã thấy ông anh ngồi bên cái rổ khoai, trước mặt là 1 đĩa muối trắng. Ông anh to lớn khềnh khàng như con gấu. Ông ăn khoai cũng khác người: không bao giờ lột vỏ. Ông cầm củ khoai đấm mạnh 1 phát vào đĩa muối trắng. Củ khoai lang tội nghiệp toe ra, muối găm đầy, cứ thể ông bỏ vào mồm mà nhai ngon lành.
Mỗi buổi sáng như thế anh lang thang vạt đồi tràm. Nắng quê anh thanh tân! Nắng tháng tư vàng rộm như mật ong, trải nhẹ và đều lên những mái nhà tranh bình yên. Gió quê anh cũng thanh tân! Gió lùa xạc xào tình tứ trên những tán cây, mái rạ...Quê anh, trong ký ức là những ngày đói nghèo nhưng ấm cúng vô cùng!
Anh chỉ tiếc là mình ít chữ quá, không làm sao để mà viết hết được những tháng ngày anh đã sống. Những tháng ngày khắc khoải phía sau lưng như 1 thứ âm bản. Bây giờ nhắm mắt lại, anh vẫn hình dung ra cái cột nhà đầy vết vôi ăn trầu của bà, cả cái ông bình vôi sứt cổ ở góc nhà; vẫn nhớ như in cái góc tủ ông anh để cái đĩa mực tàu, mỗi độ Tết về, ông lại cẫn trọng viết mấy cái chữ rắc rối như hoành thánh, anh đéo biết chữ gì!
Sáng nay dậy sớm, nằm nghe tiếng mưa nó cứ phập phù ngoài trời mà lại nhớ đến quê. Anh lớn lên phát là bỏ làng bỏ chợ dặt dẹo, lúc thầy khi thằng, đói no cắc cúm. Cứ mỗi lúc nghe tiếng gà gáy là anh lại giật mình mà nhớ quê. Tộ sư! Gà ở phố nó thần kinh, nửa đêm tỉnh dậy thấy đèn cứ tưởng trời sáng, gáy loạn cả lên.
Anh nhớ vô cùng! Nhớ cả những câu khẩu hiệu viết bằng son đỏ như tiết chó ở tường kho hợp tác xã; sau này lớn hơn tí, được về sống với bố mẹ ở phố huyện, anh còn nhớ cả những cái ô tem phếu; nhớ cả cái quần bộ đội vá mông của bố anh những tháng ngày bao cấp thần thánh. Và, nhớ hơn nữa là những mùa đông đã qua ở phố huyện tiêu điều. Mùa đông của những con bò gầy trơ xương nằm nhai gió trệu trạo; mùa của những đám rêu muộn phiền du ca dưới cây cầu nhỏ bắc qua con sông phố huyện, nơi anh đã lớn lên 1 thủa hoa niên bàng bạc!
Thế thôi nha các cô. Anh phải đánh răng đã! Anh tuy nghèo nhưng vệ sinh sạch sẽ, cứ 3 bữa là kiểu chi cũng phải đánh răng 1 lần he he!
Nguồn: Nguyễn Tuấn
Nguồn: Nguyễn Tuấn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét